Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào? là vấn đề được rất nhiều bạn trẻ quan tâm trong khi nghiên cứu về chữ quốc ngữ. Tuy nhiên, rất nhiều người yêu thích tìm hiểu về lịch sử chữ viết của nước ta lại không biết đến. Vậy nên, bài viết này chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn những thông tin chi tiết để các bạn có thể giải đáp được các vấn đề liên quan đến chữ quốc ngữ.
Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?
Trong khoảng thời gian từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, các thương buôn của Bồ Đào Nha đã có mặt hầu như ở khắp nơi trên thế giới. Cùng theo bước chân của họ là những nhà truyền giáo, phần lớn đều là người Bồ và người Ý, tháp tùng việc truyền đạo ở những vùng đất mới trên thế giới.

Theo thống kê của linh mục Đỗ Quang Chính thì trong số 145 vị giáo sĩ đến Đàng Trong để truyền giáo từ năm 1615 – 1788, có đến 74 người mang quốc tịch Bồ Đào Nha và 30 người mang quốc tịch Ý.
Dòng Tên (Jesu) của đạo Thiên Chúa chính là các tu đi truyền đạo ở thời kỳ ấy. Theo luật của dòng đạo này thì mỗi khi đến một vùng đất mới các tu sĩ phải học tiếng địa phương. Với những tài năng riêng của từng người, họ đã Latin hóa tiếng nói và chữ viết địa phương của các vùng đất mới để những người theo đạo có thể đọc và hiểu được những kinh sách của đạo.
Loại chữ Latinh này sẽ được truyền lại cho các giáo sĩ đến sau. Đây chính là phương thức mà họ đã thực hiện ở rất nhiều nơi như Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Brasil,…. Trong thế kỷ XV và XVI trước khi đi đến Việt Nam. Riêng ở khu vực Viễn Đông, dòng tu này đã thiết lập một trụ sở lớn ở Macau để làm nơi đi và đến cho các giáo sĩ.
Đầu thế kỷ XVII, vào năm 1615, các giáo sĩ Dòng Tên đã đến Đàng Trong và lần đầu họ đã học tiếng Việt. Sau đó, các giáo sĩ này đã bắt tay vào việc Latinh hóa chữ Việt.
Tài liệu viết tay của vị giáo sĩ João Roiz (người Bồ Đào Nha) đã viết năm 1621, có các loại chữ quốc ngữ ban đầu như An Nam (Đàng Trong, vào thời điểm này nước ta chưa có vùng đất Nam Bộ), Cacham (Kẻ Chàm, sau này là Thanh Chiêm), Sinoa (xứ Hóa tức là Thuận Hóa), unsai (ông sãi), ungue (ông nghè),…
Còn những chữ Việt ở trong bản tường trình của Gapar Louis (quốc tịch Bồ Đào Nha) viết năm 1621 cũng đã có loại chữ ungué (ông nghè) và bancô (bàn cổ). Còn Cristoforo Borri (người Ý), tác giả của cuốn Xứ Đàng Trong, đến Đàng Trong cùng với Francesco de Pina để thành lập nơi trụ sở Nước Mặn (Bình Định) vào năm 1618. Trong tác phẩm viết vào năm 1621 đã có những loại chữ: Tunchim (Đông Kinh tức là Hà Nội), Ainam (Hải Nam), Lai (Lào), Quanguya (Quảng Nghĩa), kemoi (kẻ mọi, xứ mọi, Tây Nguyên), Quignin (Quy Nhơn), dàdèn lùt (đã đến lúc), chià (trà), nayre (nài), doij (đói), sayc kim (sách kinh), cò (có). Cũng vào năm 1621, giáo sĩ Bozumi đã viết các loại chữ: onsaij (ông sãi), Nuoecman (Nước Mặn), Quanghia (Quảng Nghĩa), da an nua (dạ ăn nữa),…
Như vậy, cho tới năm 1621, việc Latin hóa tiếng Việt vẫn còn chưa có dấu thanh. Tài liệu viết tay của vị giáo sĩ Antonio de Fontes, một học trò của Francesco de Pina, viết vào năm 1626 đã cho thấy sự xuất hiện dấu thanh. Dĩgcham (Dinh Chàm), Sinúa (xứ Hóa), Núocman (Nước Mặn), ondedóc (ông đề đốc); nhít la khấu, khấu la nhít (nhứt là không, không là nhứt).
Dựa vào di cảo của Pina vừa được tìm thấy ở Thư viện Hoàng gia Bồ Đào Nha vào giữa năm 2018 thì chữ quốc ngữ đã có dấu như ngày nay. Tài liệu này được trưng bày trong Hội thảo về chữ quốc ngữ diễn ra tại Lisbon vào tháng 7/2018.
||Xem thêm: Tại Sao Đất Có Khả Năng Giữ Lại Các Chất Dinh Dưỡng
Chữ Quốc ngữ là gì?
Chữ Quốc ngữ là hệ chữ viết chính thức (de facto) hiện nay của tiếng Việt ta; là bộ chữ sử dụng các ký tự Latinh, dựa trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ Rôman, đặc biệt là bảng chữ cái của Bồ Đào Nha, với các loại dấu phụ chủ yếu từ bảng chữ cái của Hy Lạp.

Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, chương I Điều 5 Mục 3 đã ghi rõ: “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt”, khẳng định tiếng Việt là Quốc ngữ của nước ta. Tuy nhiên, hiến pháp lại không đề cập đến “chữ viết quốc gia”, do các cải cách trong quá trình giáo dục đã để lại những sự khác nhau trong chính tả và phiên âm trong chữ viết. Điều đó dẫn đến chưa thể xây dựng được các quy tắc nhất quán được đồng thuận về chữ quốc ngữ ở trong cộng đồng sử dụng tiếng Việt.
Tên gọi “chữ quốc ngữ” đã được dùng để chỉ chữ quốc ngữ Latinh lần đầu tiên sử dụng vào năm 1867 ở trên Gia Định báo. Tiền thân của tên gọi này là chữ Tây quốc ngữ. Về sau từ Tây đã bị lược bỏ đi, chỉ còn là chữ quốc ngữ; còn tên gọi chữ Tây lúc bấy giờ được chuyển sang để dùng cho chữ Pháp. Quốc ngữ là ngôn ngữ quốc gia của nước Việt Nam. Nếu không có từ bổ nghĩa đi kèm theo cho từ quốc ngữ được dùng để chỉ một ngôn ngữ nào khác thì quốc ngữ được mặc định là chỉ tiếng Việt.
Lịch sử phát triển của chữ quốc ngữ
Sau khi tìm hiểu xong nội dung “Chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào?” thì tiếp theo chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về lịch sử phát triển sau đó của chữ quốc ngữ. Cụ thể như sau:

Thời kỳ cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX
Do sự thống trị của chữ Hán ở nước ta, chữ Quốc ngữ trên chặng đường hơn 300 năm hình thành và phát triển nhưng chưa đủ độ phổ biến để được coi là văn tự chính thức. Chữ Nôm và chữ Hán vẫn là các dạng văn tự chính thống của tiếng Việt trong mấy trăm năm qua. Cho tới khi người Pháp xâm lăng, chiếm đóng Nam Kỳ vào cuối thế kỷ XIX thì tên gọi và vị trí của “chữ Quốc ngữ” mới được xác lập. Từ lúc đó chữ Quốc ngữ mới bắt đầu phổ biến, nhằm mục đích khiến cho tiếng Việt đồng văn tự Latinh với tiếng Pháp, giúp phổ biến văn hóa Pháp ở Việt Nam. Ngày 22 – 2 – 1869, Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier đã ký nghị định “bắt buộc phải dùng chữ Quốc ngữ thay thế cho chữ Hán” trong các công văn ở Nam Kỳ.
Kể từ 01/01/1882 tất cả các loại văn kiện chính thức, nghị định, quyết định, án tòa, chỉ thị,… sẽ được viết, ký tên và công bố bằng chữ quốc ngữ. Nhân viên nào không thể viết được thơ từ bằng chữ quốc ngữ thì sẽ không được bổ nhiệm và thăng thưởng trong các ngạch phủ, huyện và tổng,….
Năm 1879, lại có lệnh khẳng định các loại văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ. Cũng năm đó, chính quyền Pháp đã đưa chữ Quốc ngữ vào ngành giáo dục. Để khuyến khích việc truyền bá cho chữ Quốc ngữ, các nhà chức trách thuộc địa ở Nam Kỳ đã ra nghị định giảm hoặc miễn thuế thân và miễn sưu dịch cho các thân hào hương lý nếu họ biết viết chữ Quốc ngữ.
Đầu thế kỷ XX
Sang thế kỷ XX, chính phủ Đông Pháp giao cho Nha Học giảng dạy bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ từ năm 1910. Cả nước bắt đầu cùng học chữ Quốc ngữ Latinh. Ngày 28 tháng 12 năm 1918, chính thức bãi bỏ khoa cử và chữ Quốc ngữ từ đó trở thành văn tự diễn đạt phổ biến ở Việt Nam. Việc theo học chữ Quốc ngữ thời đó không chỉ là phương tiện để đọc, để viết mà còn để vận động chính trị và vận mệnh dân tộc.

Giữa thế kỷ XX
Nửa cuối thế kỷ XX bắt đầu diễn ra các chỉnh sửa chữ Quốc ngữ. Trong đó có việc sửa đổi chữ viết liên quan đến các cuộc cải cách về giáo dục của nước CHXHCN Việt Nam được thực hiện. Do lúc này có hơn 4 triệu người Việt đang ở nước ngoài, cùng với sự hay dở của việc cải cách giáo dục trong nước, dẫn đến các quan niệm và sử dụng chữ Quốc ngữ có sự khác nhau.
Từ những năm 1950 tại miền Bắc, chữ Quốc ngữ đã được giản lược bằng cách bỏ đi dấu gạch nối giữa các từ ghép và tên riêng, ví dụ như: tự-do thành tự do. Tuy nhiên điều đặc biệt là vào năm 1973 khi xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, thì lại có yêu cầu dùng thêm dấu gạch nối trong dòng tên ở phía mặt chính là Hồ-Chí-Minh.
Bên trên là những thông tin chúng tôi chia sẻ cho các bạn về chữ quốc ngữ ra đời trong hoàn cảnh nào? Hy vọng bài viết sẽ giúp các bạn hiểu hơn về chữ tiếng Việt. Nếu có bất cứ thắc mắc nào về nội dung bài viết các bạn hãy comment ở bên dưới bài viết nhé!
||Bài viết liên quan khác:
- Tại sao trong quá trình lớn lên ấu trùng tôm phải lột xác nhiều lần
- Tại sao đàn châu chấu bay đến đâu thì gây ra mất mùa đến đó
- Tại Sao Nói Châu Mĩ Nằm Hoàn Toàn Ở Nửa Cầu Tây
- So sánh đặc điểm địa hình Nam Mỹ với đặc điểm địa hình Bắc Mỹ
Nguồn: Giamayruaxe.net